So sánh toàn tính luyến ái với song tính luyến ái và các xu hướng tính dục khác Toàn tính luyến ái

Xét theo tên gọi thì "bisexual" (song tính luyến ái), có tiền tố "bi-" (song-), là xu hướng bị hấp dẫn bởi 2 giới tính và 2 giới (thông thường là nam và nữ).[12][13][10] Tuy nhiên, "pansexual" (toàn tính luyến ái), có tiền tố "pan-" (toàn-), là xu hướng tính dục chỉ người có sự hấp dẫn với bất kì giới nào. Qua những định nghĩa này, những giới mà người toàn tính bị hấp dẫn còn bao gồm người liên giới tính, và những người có giới nằm ngoài hệ nhị phân giới như nhóm người phi nhị nguyên giới/đa dạng giới.[3][12][13]

Một chuyên gia tại đại học Columbia đã khẳng định rằng người toàn tính còn có thể bị thu hút bởi người hợp giới, người chuyển giới, người liên giới tính, người phi nhị nguyên và cho rằng toàn tính luyến ái là một từ mang tính toàn diện hơn song tính luyến ái.[12] Chương thứ 2 trong quyển sách Sex and society của tổ chức Marshall Cavendish lại cho rằng dù thuật ngữ này chỉ sự thu hút với tất cả mọi thứ, những người toàn tính luyến ái không có nghĩa là người có hành vi lệch lạc tình dục, như là ái thú, ái nhi, ái tử thi,... và cho rằng thuật ngữ này chỉ mô tả hành vi tình dục đã có được sự đồng thuận giữa hai người trưởng thành với nhau.[3]

Định nghĩa về toàn tính luyến ái có thể đóng góp vào niềm tin rằng đây là xu hướng tính dục duy nhất bao hàm được cả những người không nằm trong hệ nhị phân giới nam-nữ.[2][7][13] Tuy nhiên, những người song tính luyến ái và các học giả bãi bỏ định nghĩa cho rằng người song tính chỉ bị thu hút bởi 2 giới thôi, và cho rằng người song tính không chỉ đơn thuần bị hấp dẫn bởi 2 giới mà còn bao gồm cả sự hấp dẫn với các giới khác nữa, bao hàm sự hấp dẫn nhiều hơn chỉ là 2 giới.[13][11] Khái niệm về giới (gender) được cho rằng còn phức tạp hơn giới tính (sex) của một người, khi mà giới còn bao gồm cả yếu tố gene, hoóc-môn, yếu tố môi trường và các nhân tố xã hội.[3] Hơn nữa, thuật ngữ song tính luyến ái đôi lúc được dùng để chỉ sự hấp dẫn với nhiều giới.[13] Ví dụ như trung tâm Bisexual Resource Center định nghĩa song tính luyến ái là một thuật ngữ bao hàm chỉ những người công nhận sự hấp dẫn về mặt tình dục và cảm xúc của họ dành cho nhiều hơn một giới, trong khi tổ chức American Institute of Bisexuality thì lại cho rằng song tính luyến ái là một thuật ngữ bao hàm những người có sự hấp dẫn với cả người đồng giới và khác giới và rằng sự phân loại về mặt khoa học của xu hướng song tính chỉ xét về mặt thể chất và giới tính sinh học chứ không bao gồm sự thể hiện giới.[11] Theo như tổ chức National Center for Transgender Equality cho rằng có 25% người chuyển giới Mỹ là người song tính.[14]

Học giả Shiri Eisner cho rằng những thuật ngữ như toàn tính luyến ái, đa tính luyến ái, queer, etc được sử dụng để thay thế cho thuật ngữ song tính luyến ái bởi vì song tính luyến ái đã được cho rằng đây là xu hướng tính dục thuộc về hệ nhị phân, nên bởi vậy phạm vi hấp dẫn của xu hướng này vô cùng bị hạn chế và sự tranh cãi lớn nhất vẫn đang diễn ra và được phát triển bởi người chuyển giới và người đa dạng giới song tính ở một phe, và người chuyển giới và người đa dạng giới không song tính ở phe đối lập. Eisner cũng cho rằng thuyết nhị nguyên gần như không có ảnh hưởng gi tới những đặc tính của song tính luyến ái, hay hành vi của những người song tính luyến ái ở ngoài đời thực và rằng đây chỉ là một cách thức để khiến cho phong trào của xu hướng song tính luyến ái và chuyển giới được chia tách một cách riêng biệt, bởi có những người tin rằng xu hướng song tính xóa bỏ đi sự hiện hữu của người chuyển giới và người đa dạng giới.[13]

Tổ chức American Institute of Bisexuality thì tranh luận rằng những thuật ngữ như toàn tính luyến ái, đa tính luyến ái và ambisexual có thể được dùng để miêu tả một người có được sự hấp dẫn của cả hai xu hướng tính dục đồng tính luyến áidị tính luyến ái, và như vậy những người mang nhãn đó cũng có thể được coi là một người song tính luyến ái và rằng bằng việc thay thế tiền tố "bi-" (song-) (tức hai, cả hai), với "pan", "omni-" (toàn-) (tức toàn bộ, tất cả), "poly-" (đa-) (nhiều), "ambi-" (tức cả hai, hay trong trường hợp này là chỉ sự mơ hồ, không rõ ràng), những người tự dán cho mình những nhãn này rõ ràng để bày tỏ rằng giới và giới tính không phải là một nhân tố quan trọng trong sự hấp dẫn của mình đối với người khác, tuy nhiên, điều này không có nghĩa là những người có nhãn của mình là song tính vẫn quan trọng yếu tố giới tính. Tổ chức này cũng tin rằng "nếu một người nhận dạng bản thân là một người song tính, thì đó sẽ là một sự ủng hộ cho cái hệ nhị phân giới giả kia" chính là một quan niệm có nguồn gốc từ sự phản Khoa Học, phản lại Triết Học Khai Sáng được hiện hữu trong biết bao các nghiên cứu về người Queer ở các trường Đại Học tại các quốc gia nói Tiếng Anh và rằng đúng là ngôn ngữ và các thuật ngữ của xã hội ngày nay khó có thể bao hàm và phản ánh hết được quang phổ giới của con người. Tuy rằng gần như đó không phải là lỗi tại một người khi họ tự nhận thức bản thân là người song tính, tiền tố "bi-" (song-) lại biểu trưng cho hai, hoặc cả hai, dẫu vậy, 'cả hai' ở đây có thể cho rằng 'song tính luyến ái' là sự kết hợp của 'đồng tính luyến ái' (tức sự hấp dẫn với người cùng giới) và 'dị tính luyến ái' (tức sự hấp dẫn với người khác giới). Tổ chức này cũng tranh luận rằng xu hướng dị tính luyến ái và đồng tính luyến ái được định bởi giới hạn của 2 giới với nhau. Và như vậy, bất kì một lời chỉ trích nào cho rằng xu hướng song tính luyến ái ủng hộ hệ nhị phân giới là hoàn toàn sai lệch. Theo thời gian thì quan niệm về giới của xã hội cũng sẽ tiếp tục thay đổi.[11]

Thuật ngữ toàn tính đôi lúc cũng được sử dụng thay thế cho song tính, và tương tự như vậy, những người nhận dạng là song tính có thể “cảm thấy rằng giới, giới tính sinh học, và xu hướng tính dục không nên trở thành vấn đề trọng tâm trong các mối quan hệ [tình cảm/tình dục] tiềm năng.” [2] Trong một nghiên cứu phân tích các bản dạng tính dục được mô tả như các thuật ngữ dùng thay thế cho song tính và các nhãn dán bi-self, “phân nửa những người phản hồi là người song tính và nhận dạng là song tính cũng chọn các nhãn dán thay thế như là queer, toàn tính, pansensual, polyfidelitous, ambisexual, đa tính, hay các bản dạng nội hoá như là byke hay biphilic.” [5]Trong một nghiên cứu năm 2017, bản dạng toàn tính được cho là “có sức hút lớn nhất với những phụ nữ không dị tính và những người không hợp giới.” [15]Đa tính có định nghĩa khá giống với định nghĩa của toàn tính, tức “bao gồm hơn một tính dục”, nhưng lại không nhất thiết phải bao gồm tất cả các tính dục. Từ này khác với “đa ái” – có nghĩa là nhiều hơn một mối quan hệ thân mật cùng một lúc với điều kiện mọi người liên quan phải biết và chấp thuận. Viện Song tính Hoa Kì khẳng định rằng, “Từ linh hoạt diễn tả sự thật rằng tính cân bằng giữa hấp dẫn đồng tính và dị tính ở một người tồn tại ở một thể linh hoạt và thay đổi theo thời gian.”

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Toàn tính luyến ái http://www.cnn.com/2016/10/10/health/pansexual-fea... http://www.oxforddictionaries.com/definition/engli... http://dictionary.reference.com/browse/omnisexual http://www.thephoenixnews.com/2014/11/bisexuality-... http://goaskalice.columbia.edu/bi-gay-pansexual-wh... http://diversity.utexas.edu/genderandsexuality/wp-... http://bisexual.org/qna/doesnt-identifying-as-bise... //dx.doi.org/10.1007%2Fs11199-008-9425-3 http://www.glaad.org/document.doc?id=99 http://affinitymagazine.us/2017/07/11/what-is-the-...